(NCPLĐTO) – Chia sẻ với chúng tôi, TS. Hồ Minh Sơn cho rằng khung pháp lý cho tài sản số không chỉ giúp hình thành thị trường tài sản số minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư, mà còn giúp tăng nguồn thu ngân sách. Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận sự tồn tại của tài sản số và tiền kỹ thuật số, tuynhiên thực tế không thể ngăn cản xu hướng hình thành và phát triển của thị trường sôi động và hấp dẫn này.
Theo số liệu thống kê theo sự tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam cho thấy, về dòng vốn từ thị trường blockchain vào Việt Nam giai đoạn 2023 – 2024 ước đạt trên 105 tỷ USD, với lợi nhuận tạo ra gần 1,2 tỷ USD (2023). Việt Nam đang có hơn 17 triệu người sở hữu tài sản mã hóa, xếp thứ 7 trên toàn cầu; tỷ lệ sở hữu crypto tại Việt Nam đạt khoảng 17%, cao hơn nhiều so với mức trung bình 6,5% của toàn thế giới.
Việt Nam đang có cơ hội lớn để tận dụng nguồn thu từ giao dịch tài sản số. Nếu áp dụng mức thuế thu nhập cá nhân 0,1% như chứng khoán, mỗi năm có thể thu về hơn 800 triệu USD tiền thuế. Thực tế, tiền số đang thay đổi cách giao dịch, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này cũng đi kèm với những thách thức về bảo mật và pháp lý, đòi hỏi sớm có khung pháp lý phù hợp cho loại tài sản số này. Có thể thấy, trong bối cảnh thị trường tài sản số đang phát triển mạnh mẽ, việc thí điểm một sàn giao dịch tiền kỹ thuật số tại Việt Nam được giới chuyên gia đánh giá là một bước đi quan trọng trong việc quản lý rủi ro tài sản số. Từ đó, không chỉ mở ra cơ hội phát triển thị trường tài sản số mà còn thúc đẩy nền kinh tế số của Việt Nam.
TS. Hồ Minh Sơn phân tích tài sản số và tiền kỹ thuật số không chỉ là vấn đề mới và phức tạp đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thế giới hiện có khoảng 2,4 triệu loại tiền kỹ thuật số khác nhau, phần lớn trong số đó được tạo ra bởi các cá nhân hoặc tổ chức tư nhân thông qua thuật toán máy tính và không chịu sự quản lý chặt chẽ bởi bất kỳ cơ quan tài chính nào. Đồng thời,thị trường quốc tế hiện nay, các sàn giao dịch tiền điện tửnhư Binance, Remitano, MEXC Global…cũng đang thu hút sự quan tâm lớn của nhà đầu tư, trong đó có không ít người Việt Nam tham gia giao dịch tiền số. Nhất là giới trẻ ngày nay dễ dàng tiếp cận với các công nghệ mới và có nhiều kiến thức về đầu tư.
Như vậy, giao dịch tài sản số không chính thức đang tạo ra một nền kinh tế ngầm khổng lồ, nhưng Việt Nam lại chưa có khung pháp lý chính thức cho tiền điện tử, tài sản số. Trong khi đó, thị trường giao dịch tiền điện tử diễn ra ngày càng sôi động, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhu cầu cấp thiết xây dựng khung pháp lý cho loại tài sản này.
Theo TS. Hồ Minh Sơn phân tích, việc có hành lang pháp lý, cho phép thí điểm sàn giao dịch tài sản số sẽ giúp minh bạch hóa thị trường với dòng vốn hàng trăm tỷ USD, đóng góp vào tăng trưởng GDP; giúp giảm thiểu rủi ro tranh chấp về mặt pháp lý và bảo vệ lợi ích nhà đầu tư. Trong Chỉ thị về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ban hành mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao đề xuất, trình Chính phủ ngay trong tháng 3/2025 về khung pháp lý quản lý, thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số lành mạnh và hiệu quả.
Được biết, tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp nhỏ trước đó diễn ra vào cuối tháng 2/2025, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chính sách, quy định về tài sản số, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sand box). Các cơ quan phải hoàn thành chậm nhất trong quý II/2024.
Mới đây, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã có báo cáo cho thấy, các quốc gia chưa có khung pháp lý rõ ràng về tài sản số có thể chịu tổn thất lên đến 7,8% GDP. Theo đó, tiền số đang tạo ra nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ lừa đảo, thao túng thị trường, và sử dụng tiền kỹ thuật số cho các hoạt động phi pháp như rửa tiền hay tài trợ khủng bố.
Theo tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam, Việt Nam luôn nằm trong top đầu về chỉ số chấp nhận tiền điện tử toàn cầu (Global Crypto Adoption Index). Chỉ tính riêng năm 2024, hơn 17 triệu người Việt Nam đã sở hữu tài sản mã hóa. Vớinguồn lực trong “kinh tế ngầm” của Việt Nam qua tài sản mã hóa là rất lớn. Nếu không có khung pháp lý, việc khai thác và sử dụng nguồn lực này sẽ gặp nhiều khó khăn và dễ gây ra các hệ lụy tiêu cực.
TS. Hồ Minh Sơn nhìn nhận, nhu cầu đầu tư công nghệ để tìm kiếm cơ hội và lợi nhuận cao cũng tạo điều kiện cho các đường dây lừa đảo lợi dụng công nghệ, khiến người dân dễ bị cuốn vào các hoạt động bất hợp pháp. Do đó, việc ban hành chính sách và khung pháp lý phù hợp sẽ giúp hạn chế vấn đề này, thúc đẩy sự phát triển của tài sản mã hóa…Có thể thấy, việc đưa các giao dịch tài sản số vào khuôn khổ chính thức là một yêu cầu cấp bách để phá vỡ vòng luẩn quẩn của nền kinh tế ngầm. Khi tài sản số được luật pháp công nhận và quản lý, giao dịch sẽ trở nên minh bạch, an toàn hơn, đồng thời giảm thiểu nguy cơ gian lận và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Từ đó, tạo ra một nền tảng vững chắc để Nhà nước thu thuế từ các hoạt động kinh tế số, tăng cường nguồn thu ngân sách và đầu tư trở lại các lĩnh vực thiết yếu như giáo dục, công nghệ.
Việc gắn kết giao dịch tài sản số với các chính sách thuế sẽ không chỉ giúp tăng cường nguồn thu, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch và công bằng. Khi tài sản số được hợp pháp hóa và quản lý, Nhà nước có thể áp dụng các loại thuế như thuế thu nhập cá nhân (đối với lợi nhuận từ giao dịch tài sản số), thuế giá trị gia tăng (đối với dịch vụ liên quan đến tài sản số), hoặc thuế doanh nghiệp (đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này). TS. Hồ Minh Sơn cũng đánh giá, Việt Nam có cơ hội lớn để tận dụng nguồn thu từ giao dịch tài sản số. Nếu áp dụng mức thuế thu nhập cá nhân 0,1% như giao dịch chứng khoán, hơn 800 triệu USD tiền thuế có thể được thu về mỗi năm. Bên cạnh đó, các nền tảng giao dịch thường áp dụng mức phí 0,01 – 0,8% mỗi giao dịch. Điều này vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa tạo điều kiện để giám sát và điều tiết thị trường, bảo vệ nhà đầu tư trước các rủi ro, khuôn khổ pháp lý cho phép giao dịch tài sản số chính thức sẽ tạo ra nguồn thu đáng kể từ thuế và giúp bảo vệ quyền lợi của người dân.
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam, có hơn 70,7% người dùng từng nhận được lời mời đầu tư vào các sàn giao dịch không rõ nguồn gốc. Chỉ riêng năm 2024, người dân đã mất 18.900 tỷ đồng do lừa đảo trực tuyến, với hình thức lừa đảo phổ biến nhất là mời gọi đầu tư vào các sàn tiền ảo.
Trên thế giới hiện có nhiều quốc gia vẫn đang tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các khung pháp lý để quản lý tài sản số, tài sản ảo một cách minh bạch, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và hướng tới sự phát triển kinh tế – xã hội. TS. Hồ Minh Sơn nhìn nhận với sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan, với các cơ quan, tổ chức sớm xây dựng quy định pháp quy, pháp luật cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức Việt Nam có thể phát hành tài sản này của mình để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức đó. Cạnh đó, đóng góp vào phát triển chung đối với nền kinh tế đất nước, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, cũng như bắt kịp xu thế phát triển chung của thế giới về tài sản ảo, tài sản số. Tôi kỳ vọng rằng việc thành lập sàn giao dịch sẽ giúp các cơ quan chức năng dễ dàng quản lý và thu thuế, lọc ra các tài sản số xấu, độc hại và ngăn chặn các hành vi lừa đảo. Song song đó, tài sản số đặt ra ba thách thức lớn: một là về mặt pháp lý, cần có định nghĩa rõ ràng về tài sản số và quyền sở hữu; hai là vấn đề quản lý, làm sao để kiểm soát hiệu quả nhưng không kìm hãm sự đổi mới sáng tạo; ba là hội nhập quốc tế, khi tài sản số không có biên giới, cần phải có một khung pháp lý tiệm cận với thông lệ quốc tế để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Cũng theo TS. Hồ Minh Sơn nhấn mạnh, việc hình thành khung pháp lý không chỉ giúp kiểm soát rủi ro, mà còn tạo điều kiện để dòng vốn từ tài sản mã hóa đóng góp chính thức vào nền kinh tế (Nhà nước thu thuế từ giao dịch tài sản mã hóa), giảm thiểu các hệ lụy xã hội từ những hoạt động đầu tư chưa được kiểm soát. Nhà đầu tư sẽ được trải nghiệm và hiểu rõ thế nào là một giao dịch chính thức được công nhận, đồng thời được bảo vệ trong khung khổ pháp lý của Nhà nước. Với việc sớm cân nhắc, tính toán để có chính sách thu thuế với kinh doanh tài sản số, tiền số. Việt Nam đang là mảnh đất rất “màu mỡ” cho thị trường tiền số, nếu không có chính sách, hành lang pháp lý để quản lý, thì sẽ bị thất thu thuế. Điển hình, khi khung pháp lý rõ ràng, nhất quán và linh hoạt về tài sản số, hứa hẹn sẽ tạo được niềm tin cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhấn mạnh thêm: “Nếu có khung khổ pháp lý, thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực blockchain sẽ rất yên tâm, sẵn sàng đóng thuế và hoạt động chính thống. Khi đó, doanh nghiệp có thể phát triển nhanh, bắt kịp xu thế công nghệ thế giới hiện nay”.
Hiện nay, khoảng 120 quốc gia đã hợp pháp hóa tiền điện tử, trong đó 62 quốc gia đã thiết lập các quy định toàn diện, còn 22 quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, cấm hoàn toàn việc sử dụng và giao dịch tiền điện tử. Tại Trung Quốc, giao dịch và khai thác tiền mã hóa bị coi là bất hợp pháp từ năm 2017 và bị siết chặt từ năm 2021. Các ngân hàng phải giám sát, báo cáo giao dịch rủi ro, trong khi các cơ quan tài chính không được cung cấp dịch vụ liên quan. Dù hạn chế tiền mã hóa tư nhân, Trung Quốc vẫn tiên phong thử nghiệm đồng tiền kỹ thuật số quốc gia và nghiên cứu công nghệ blockchain (công nghệ chuỗi khối). Việc kiểm soát chặt xuất phát từ lo ngại về rủi ro tài chính, đầu cơ, trốn thuế, rửa tiền và các hoạt động tội phạm.
Một số quốc gia trên thế giới như: Thụy Sỹ là một trong những quốc gia đi đầu về tiền mã hóa, tài sản số và đã có khung pháp lý về̀ các hoạt động liên quan đến tài sản số, tiền số, bao gồm các quy định về thuế, bảo vệ người dùng. Năm 2017, Nhật Bản công nhận Bitcoin là một phương thức thanh toán hợp pháp và yêu cầu các sàn giao dịch phải đăng ký với Cơ quan Dịch vụ tài chính Nhật Bản. Năm 2019, Ngân hàng Trung ương Singapore ban hành khung pháp lý cho các hoạt động liên quan đến tài sản số, cho phép các công ty hoạt động trong lĩnh vực này đăng ký và hoạt động tại Singapore. Đồng thời, vào giữa năm 2024, Mỹ thông qua dự luật về tiền điện tử với tên gọi Đạo luật Đổi mới tài chính và công nghệ cho thế kỷ 21 (FIT21). Đạo luật đầu tiên của Liên minh châu Âu (EU) về tiền điện tử – MiCA có hiệu lực toàn bộ từ tháng 12/2024.
TS. Hồ Minh Sơn khuyến nghị thêm, để quản lý hiệu quả thị trường tiền ký thuật số tại Việt Nam, cần xây dựng định nghĩa rõ ràng về các loại tiền số và giao dịch liên quan, cùng với đó quy định cụ thể về điều kiện cấp phép, yêu cầu kỹ thuật, thanh khoản, vốn và bảo vệ người dùng. Bên cạnh đó, phải quản lý chặt chẽ các sàn giao dịch, giúp kiểm soát rủi ro, ngăn chặn giao dịch bất thường. Mặt khác, cần ban hành quy định về thuế đối với giao dịch và lợi nhuận từ tiền số nhằm tránh thất thoát nguồn thu quốc gia và đảm bảo sự minh bạch tài chính, cùng quy định chặt chẽ về chống rửa tiền, tài trợ khủng bố.
ThS. Mai Thanh Hải – Phó viện trưởng Viện IMRIC, GĐ Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, pháp luật cho đầu tư, phát triển công nghệ Blockchain (CBT)/Nguồn Viện IMRIC